Lĩnh vực bào chế Đông dược là một lĩnh vực quan trọng trong ngành dược học, tập trung vào quá trình chế biến và sản xuất các loại thuốc truyền thống từ nguồn gốc thảo dược trong Đông y.
Bạn có hiểu về lĩnh vực bào chế Đông dược không?
Bào chế Đông dược là gì?
Cử nhân Văn bằng 2 Cao đẳng Dược TP.HCM – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Bào chế là quy trình quan trọng trong việc xác định hiệu quả trị liệu của các loại thuốc Đông y. Thuật ngữ “bào” có nghĩa là sử dụng sức nóng để thay đổi tính chất và dược tính của thảo dược, làm cho chúng thuận tiện hơn cho quá trình chế biến và sử dụng trong điều trị. Chế biến cũng bao gồm việc thay đổi hình dạng và tính chất của nguyên liệu.
Mục đích chính của việc bào chế thuốc bao gồm:
- Loại bỏ các tạp chất như mốc và sâu mọt từ dược liệu.
- Tạo ra dạng thuốc dễ thái miếng, bảo quản, có thể nấu thành bột hoặc cao.
- Loại bỏ các thành phần không cần thiết để tinh khiết hóa vị thuốc.
- Giảm độc tính của thuốc.
- Thay đổi tính năng của vị thuốc để nó dễ tan vào nước và dễ thấm hút.
Bào chế Đông dược với các dạng thuốc phổ biến
Dược sĩ Cao đẳng Dược chính quy tại Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur cho biết có các dạng thuốc bào chế bao gồm thuốc thang và thuốc cao. Thuốc thang là hỗn hợp các vị thuốc được sắc chế bằng cách đổ nước lên và sau đó lược bỏ xác. Thuốc cao là loại thuốc được chiết xuất hoạt chất thông qua dung môi, sau đó được cô đặc lại và có nhiều dạng như cao lỏng, cao mềm, cao dẻo, cao khô, phục vụ cho việc sử dụng uống trong và ngoài như cao dán và cao xoa.
Thuốc tễ là dạng thuốc mềm, dẻo, có hình cầu, kích thước lớn tương đương với hạt nhãn, chứa cả thuốc và mật (như mật ong, mật mía hoặc mạch nha).
Thuốc tán (bột) là một loại thuốc thể rắn, rời. Quá trình chế biến bao gồm việc tán nhuyễn dược liệu từ động vật, khoáng vật, hoặc thực vật thành bột vừa hoặc bột mịn, thích hợp để sử dụng bằng cách uống hoặc bôi ngoài da.
Chia sẻ bởi các Tiến sĩ Bác sĩ Y học cổ truyền đang giảng dạy tại Trường Đại học Lương Thế Vinh Thuốc rượu là dạng thuốc sử dụng rượu để chiết xuất hoạt chất từ vị thuốc. Quy trình này bao gồm việc ngâm các loại thuốc trong rượu hoặc đun nóng bằng cách thủy, sau đó lọc bỏ bã để thu được dung dịch rượu chứa hoạt chất, có thể sử dụng uống hoặc bôi ngoài da trong quá trình xoa bóp.
Bào chế Đông dược với các phương pháp chế biến
Các phương pháp bào chế Đông dược bao gồm:
- Dùng lửa (hoả chế): Sử dụng lửa trực tiếp hoặc gián tiếp như hong, sấy, đốt để làm khô, sém vàng, và biến thành than.
- Nung: Đặt vị thuốc vào lửa đỏ trực tiếp hoặc nung trong nồi chịu lửa, thường sử dụng chói ác loại thuốc kháng vật như Mẫu lệ, Từ thạch để làm mất nước và tăng khả năng hấp thụ hoặc thu sấp.
- Bào: Đặt vị thuốc vào chảo sao trong một khoảng thời gian ngắn, cho đến khi sém vàng xung quanh, nứt nẻ, giảm tính mãnh liệt của thuốc như Bào khương.
- Lùi: Bọc giấy ướt hoặc cám lùi với tro nóng hoặc than, giấy và cám cháy để thu hút một số hoạt chất có dầu, làm giảm độc tính của thuốc như Cam toại.
- Sao: Đặt vị thuốc vào nồi rang, chảo và sao, là phương pháp phổ biến nhất. Tùy thuộc vào mức độ nóng khác nhau, ta có sao vàng (như Bạch truật, Hoài sơn), sao cháy (như Quả dành dành), và sao đen (thành than tồn tại hình dạng chưa thành tro như Trắc bá diệp). Thông thường, sao vàng được sử dụng để kiện tỳ, trong khi sao đen giữ nguyên hình dạng và có tác dụng cầm máu.
- Sấy: Sấy thuốc trên than hoặc trong lò sấy. Các ví dụ bao gồm sấy khô (như Cúc hoa, Kim ngân hoa) và sấy vàng khô ròn (như Thuỷ điệt, Manh trùng).
- Chích (nước): Phương pháp này liên quan đến việc chích nhuyễn mật, đường và các thành phần khác đến khi không còn dính là được. Được sử dụng để tăng tác dụng của vị thuốc, ví dụ như chích cam thảo với mật để tăng tác dụng dinh dưỡng và nhuận phế.
Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur tuyển sinh Cao đẳng Dược 2024
- Dùng nước (thuỷ chế): Sử dụng nước để làm cho vị thuốc trở nên sạch sẽ, mềm dễ thái, và giảm độc tính.
- Rửa: Thực hiện để làm sạch chất bẩn và đất.
- Giặt sạch: Một quy trình lâu dài hơn việc rửa, thường sử dụng nguồn nước tưới để loại bỏ tạp chất từ vị thuốc.
- Ngâm: Sử dụng nước nguội hoặc nước sôi để ngâm. Đào nhân thường được ngâm trong nước để dễ bóc vỏ. Nếu vị thuốc cứng, việc ngâm lâu giúp làm mềm và dễ thái, đồng thời giảm độc tính.
- Tẩm: Ngâm vị thuốc để làm cho chúng trở nên mềm dễ bào nhỏ.
- Thuỷ phi: Thêm nước vào quá trình nghiền chung với thuốc để tán nhỏ mịn và ngăn chặn việc thuốc bay ra như trong trường hợp của Hoạt thạch, Chu sa, Thanh đại.
- Phối hợp dùng lửa nước (thuỷ hoả hợp chế): Chưng: Chưng thuỷ để chín, hoặc chưng với rượu như thục địa để loại bỏ tính đắng lanh của thuốc và thay đổi công hiệu.
- Nấu: Nấu thuốc với nước, nước sắc vị thuốc khác, hoặc giấm. Nấu để chiết tinh chất hoà tan rồi cô đặc thành cao.
- Tôi: Nung đỏ vị thuốc, sau đó tôi với nước và giấm để tan rã và giữ nước, thường được sử dụng cho các loại thuốc khoán vật.
Ngoài ra các bác sĩ Y học cổ truyền tại một số trường Cao đẳng Y Dược Hà Nội cho rằng, còn có sự kết hợp của giấm, rượu, nước cơm, nước muối ăn được sử dụng chung với các phương pháp tẩm, ngâm nước, nướng, sao, chưng để đáp ứng yêu cầu chữa bệnh, ví dụ như rượu đưa lên, gừng phát tán, muối vào thận, giấm vào can.