Tìm hiểu phương pháp phân loại các chế phẩm dùng ngoài da

23

Chế phẩm dùng ngoài da là một lĩnh vực quan trọng trong lĩnh vực y học và dược học, giúp người dùng có thể tiếp cận nhiều tiêu chí khác nhau như thể chất, thành phần cấu tạo, hoặc mục đích sử dụng chế phẩm.

Tìm hiểu phương pháp phân loại các chế phẩm dùng ngoài da

1. Định nghĩa chế phẩm dùng ngoài da “thuốc mỡ”

Cử nhân Văn bằng 2 Cao đẳng Dược TP.HCM chia sẻ: Theo Dược điển Việt Nam II tập 3, “Thuốc mỡ” được định nghĩa là dạng thuốc có chất mềm, được sử dụng bôi lên da hoặc niêm mạc để bảo vệ da hoặc đưa thuốc thấm qua da. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đủ toàn diện để bao gồm tất cả các sản phẩm được sử dụng qua da để điều trị và phòng bệnh hiện nay.

2. Phân loại các chế phẩm dùng ngoài da

2.1. Theo thể chất và thành phần cấu tạo:

  • Thuốc mỡ mềm (Unguentum, pomata): Dạng chủ yếu có thể chất mềm trước đây, sử dụng thân dầu hoặc tá dược khan. Ví dụ: Mỡ benzosali, mỡ Flucinar, mỡ tra mắt Tetracyclin 1%, mỡ tra mắt Chlorocid-H.
  • Bột nhão bôi da (Pasta dermica): Chứa tỷ lệ lớn dược chất rắn không tan trong tá dược, sử dụng thân dầu hoặc thân nước.
  • Sáp (Cera, unguentum cereum): Chất dẻo chứa sáp, alcol béo cao, parafin hoặc hỗn hợp dầu thực vật và sáp.
  • Kem bôi da (Creama dermica): Chất mềm và mịn màng, sử dụng tá dược lỏng như nước, glycerin, propylen glycol, dầu thực vật, dầu khoáng.

2.2. Theo quan điểm lý hoá:

  • Thuốc mỡ thuộc hệ phân tán đồng thể: Dung dịch thật hoặc dung dịch keo, dược chất hoà tan trong tá dược thân dầu hoặc thân nước.
  • Thuốc mỡ thuộc hệ phân tán dị thể: Gồm hỗn dịch và nhũ tương, chia thành kiểu hỗn dịch và kiểu nhũ tương.
  • Thuốc mỡ thuộc nhiều hệ phân tán: Gọi là thuốc mỡ nhiều pha, có cấu trúc phức tạp hơn, ví dụ như Voltaren Emugel.

2.3. Theo mục đích sử dụng, điều trị:

  • Bảo vệ da và niêm mạc.
  • Tác dụng điều trị tại chỗ: Sát khuẩn, giảm đau.
  • Tác dụng điều trị toàn thân: Phòng bệnh, chứa dược chất như các nội tiết tố, chống sốt rét, chống phân bào, hạ huyết áp.

Đối với phân loại theo mục đích sử dụng, thuốc mỡ có thể được sử dụng để bảo vệ da, điều trị tại chỗ, và có tác dụng điều trị toàn thân tùy thuộc vào thành phần và mục đích cụ thể của từng loại sản phẩm.

3. Hệ điều trị qua da (TTS)

Dược sĩ tại các trường Cao đẳng Y Dược Hà Nội cho biế: Do những ưu điểm và tiềm năng của dạng thuốc dùng ngoài da và khả năng hấp thu qua da, nghiên cứu về các dược chất và tá dược đã giúp chế tạo ra nhiều sản phẩm hấp thu qua da với mục tiêu điều trị và phòng bệnh đa dạng. Các công trình nghiên cứu về sinh dược học và động dược học trong quá trình hấp thu thuốc qua da nhằm tạo ra các chế phẩm có hiệu quả điều trị cao và sinh khả dụng cao.

Đặc biệt, nhờ vào kết quả của nghiên cứu sinh dược học, đã xuất hiện hệ trị liệu qua da, nơi mà dược chất được giải phóng và hấp thu theo một tốc độ xác định.

Có thể định nghĩa hệ trị liệu qua da (Transdermal Therapeutic System – TTS) như sau: là một dạng thuốc hấp thu qua da đặc biệt, được dán lên những vùng da của cơ thể để tạo ra tác dụng phòng và điều trị bệnh.

Về cấu tạo, thông thường có 4 loại TTS:

  • TTS, dược chất giải phóng thuốc qua màng.
  • TTS, dược chất sẽ được khuếch tán tại cốt trơ.
  • TTS, dược chất được phân tán tại môi trường nền dính.
  • TTS, dược chất hoà tan trong một vài polymer thân nước.

Một mô tả nguyên tắc của một loại TTS có thể được trình bày như sau:  

Sơ đồ nguyên tắc cấu tạo của một hệ trị liệu qua da

Giảng viên Cao đẳng Y Dược TP.HCM cho biết: Trong Hệ điều trị qua da (TTS), dược chất được hoà tan hoặc phân tán trong cốt polymer có thể được giải phóng theo mục đích qua một màng bán thấm vào nền dính. Nền dính này chứa một liệu thuốc giải phóng ngay sau khi đặt hệ trị liệu để tạo ra tác dụng ban đầu. Tốc độ giải phóng dược chất được kiểm soát bởi độ dày và đường kính lỗ xốp của màng bán thấm.

So với cách dung nạp thuốc qua hệ tiêu hoá, thì thuốc dùng qua da có một số ưu điểm sau:

  • Thuốc hấp thu qua da tránh được yếu tố ảnh hưởng như pH của dịch tiêu hoá, thức ăn trong dạ dày.
  • Dược chất hấp thu trực tiếp vào hệ mạch, tránh được chuyển hóa qua gan lần đầu có thể làm giảm hiệu quả điều trị.
  • Do thuốc được dự trữ và giải phóng theo mức độ và tốc độ xác định, nên những dược chất có thời gian bán huỷ ngắn, người bệnh không gây lo lắng về nồng độ trong máu và sẽ đảm bảo ngưỡng điều trị.
  • Nồng độ thuốc được duy trì trong vùng có tác dụng điều trị, thích hợp cho những bệnh nhân cần sử dụng thuốc thường xuyên như bệnh tim mạch, huyết áp, hen suyễn.
  • Bệnh nhân không cần dùng thuốc nhiều lần trong ngày và không cần lo lắng về thời gian ban đêm.

Hệ điều trị qua da thường chỉ áp dụng đối với những dược chất có tác dụng mạnh, liều không quá 2 mg/ngày. Ngược lại, những hoạt chất này phải bền vững, không quá nhạy cảm và không gây kích ứng da.


Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur là địa chỉ uy tín trong đào tạo Cao đẳng Dược 

Các dược chất thường được sử dụng trong hệ trị liệu qua da bao gồm các thuốc giảm đau, chống co thắt như Scopolamin, hyocin, thuốc dùng cho bệnh tim mạch và huyết áp cao như nitroglycerin, clonidin, nội tiết tố như Estradiol và dẫn chất của nó, cũng như các dược chất khác như Clopheniramin, ephedrin, và Nicotin được sử dụng để cai nghiện thuốc lá trong hệ trị liệu qua da.

Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo, phục vụ mục đích học tập nghiên cứu dành cho sinh viên Y khoa!

Tổng hợp bởi truongcaodangyduocpasteurhn.edu.vn

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here